Một bài văn-tế có tính-cách sử-liệu / Lê-Ngọc-Trụ

Dưới đây là bài « Văn-tế vong-hồn mộ nghĩa » trích trong quyển « Gia lễ. Dọn bốn lễ đầu cùng lễ phép học trò công tư thông-dụng » (1) của Hoàng-Tịnh Paulus Của, Đốc-phủ-sứ, trang 28 và 29.

Trên bài văn-tế có dẫn một câu Hán-văn :

« Tự-Đức thập tứ niên, thập nhứt ngoạt, thập ngữ nhựt chi dạ, Thống quản (Bùi-Quang-Mỗ) suất tương nghĩa-binh tựu Cần-Giuộc công phá dương-huyện, thiêu đắc dương di đạo đường, đạo-quán, thích trúng dương quan tri huyện, tịnh Chà-và Ma-ní đẳng. Nghĩa-binh trận vong, cai thập ngũ danh. Kỳ Tú-tài Nguyễn-Đình-Chiểu phụ tế văn ».

Đại ý nghĩa là : « Đêm rằm tháng mười một, năm Tự-Đức thứ 14 (tức là đêm 16 tháng 12 năm 1861 dương-lịch) Thống quản (Bùi-Quang-Mỗ) đốc-suất dẫn nghĩa-binh tựu tại Cần-Giuộc đánh phá « huyện của Tây », đốt được nhà thờ nhà giảng của chúng, đâm trúng « tri huyện Pháp » cùng với một số lính Chà-và và Ma-ní.

« Nghĩa-binh chết trận gồm mười lăm người. Nhờ Tú-tài Nguyễn-Đình-Chiểu làm bài văn phụ tế ».

Bài văn-tế này là một tài-liệu lịch-sử giúp ta hiểu thời-cuộc đã xẩy ra lúc bấy giờ mà tài-liệu của sách Pháp chỉ ghi tóm-tắt, đồng thời cũng nêu một nghi-vấn về thời-giờ xẩy ra cuộc tập-kích ấy.

Thêm vào nghi-vấn ấy, người sưu-tầm sử-liệu phải thắc-mắc vì lời chú-thích của học-giả Phan-Văn-Hùm và nhà sử học Lê-Thọ-Xuân.

Thật vậy, trong quyển Nỗi lòng Đồ Chiểu (do nhà xuất-bản Đỗ phương-Quế (Chợlớn) phát-hành năm 1938, nhưng bị cấm ; nhà xuất-bản Tân-Việt mới tái-bản năm 1958). Ông Phan-văn-Hùm có trích-lục một phần bài văn-tế, rút trong sách Quốc-âm thi tập của Paulus Của (Saigon 1907) và ghi lời chú như sau :

« Ngày mười ba tháng mười một năm Tân Dậu (14-12-1861) đồng thời ba nơi Cần-Giuộc, Tân-An và Gò-Công bị contre-amiral Bonard đánh ụp ».

« Trong bài văn-tế thuật rằng hai hôm sau qua đêm rằm, nghĩa-binh Việt-Nam lén đến Cần-Giuộc đánh phá trả hờn ».

Đọc đoạn chú vắn-tắt nầy, ta có thể hiểu rằng ba xứ Cần-Giuộc, Tân-An và Gò-Công trước ngày 13 tháng mười một (tức 14-12-1861) còn do quân Việt-Nam trấn giữ và bị quân-sĩ của thủy-sư đề đốc Bonard đánh úp.

Vì vậy nên mới có trận đánh « trả hờn » của nghĩa-binh hai ngày sau đó, tức là ngày rằm, nhằm 16 tháng mười hai 1861 dương-lịch.

Nhưng theo sử, sau khi chiếm-cứ Mỹ-Tho (14-4-1861) quân Pháp liền lo đặt đồn bót tại các vùng ở giữa khoảng hai sông Cửu-Long và Soai-Rạp, như Gia-Thạnh (Tân-An), Chợ Gạo (Mỹ-Tho) và Gò-Công. Vì vậy nên ông huyện Đỗ-Trình-Thoại (người Pháp viết là Huyện Toại), ông Trương-Công-Định mới đánh phá Gò-Công vào ngày 22 và 24 tháng 6 dương-lịch. Trận đầu thì Vial bị hỏa hổ Việt-quân xịt cháy một con mắt và bị đâm hai mũi giáo, ông Huyện Thoại bị chết trận ; trận sau, thiếu-tướng Lebris phải đổ bộ thêm quân tiếp-viện mới đánh lui được Trương-Công-Định ; sau vì nghĩa quân đánh phá mãi đến cuối tháng 9 dương-lịch quân Pháp mới lập được thế vững chắc ở Gò-Công. Như vậy, Gò-Công đã bị chiếm trước lâu rồi, thì Bonard sao lại còn phải « đánh úp » vào ngày 14 tháng 12 dương-lịch ? Chúng tôi rất phân-vân...

Tìm đọc đoạn tiểu-sử cụ Nguyễn-Đình-Chiểu của Ông Lê-Thọ-Xuân đăng trong số đặc-biệt « Lễ kỷ-niệm Nguyễn-Đình-Chiểu » của Nam-kỳ tuần-báo (26-6-1943), nơi trang 40, gặp được tài-liệu liên-quan đến bài văn-tế như vầy :

« ....

« Chắc-chắn là ông (Nguyễn-Đình-Chiểu) về Thanh-Ba khi Sàigòn vừa bị hạ, vì theo đạo công-văn của Gia-Định Tuần phủ Đỗ-Quang thì năm Tự-Đức thứ 14, ông đã có tại đó rồi.

« Năm nầy, ngày 13 tháng 11 annam (14-12-1861), cả ba xứ Cần-Giuộc, Tân-An, Gò-Công bị Bonard đánh úp. Hai hôm sau, nhơn đêm rằm, nghĩa-quân ba xứ nầy nhứt tề ứng khởi.

« Về trận nầy, trong « Quốc âm thi tập » Paulus Của nói nghĩa-binh chết 15 người, còn trong công-văn, Đỗ-Quang nói 27 người. Sau trận nầy Đỗ-Quang dạy Bùi-quang-Diệu điếu-tế nghĩa-quân bị « tử-trận » ; vì vậy mà có bài văn « Tế-nghĩa-sĩ Cần-Giuộc » của Đồ Chiểu.

« Bài nầy chẳng những chỉ được chạy cùng miền Cần-Giuộc mà còn bay khắp cả tỉnh trong nước do bộ Lễ ở Huế truyền đi. »

Đoạn văn ấy giúp ta thêm tài-liệu quí giá : Thống-quản không phải Bùi-Quang (Mỗ) mà là Đỗ-Quang ; Bùi-Quang-Diệu lo việc điếu-tế, nhờ cụ Đồ Chiểu làm bài văn-tế. Nhưng về chỗ mà chúng tôi phân-vân « cả ba xứ Cần-Giuộc, Tân-An, Gò-Công bị Bonard đánh úp » vào ngày 13 tháng mười một (14-12-1861) thì nhà sử học cũng viết đúng y như học-giả Phan-văn-Hùm. Chúng tôi lầm chăng ? Nhưng khi khảo-cứu các sách Pháp viết về giai-đoạn lịch-sử này, thì đại để đều y như lời của Alfred Schrenier đã dùng tài-liệu viết trong quyển Abrégé de l'histoire d'Annam, xuất-bản năm 1906. Nơi trang 224, có đoạn liên-quan đến trận « đánh úp » ấy, xin lược dịch như sau :

« Cuộc đánh úp liều-lĩnh của nghĩa-binh Việt (tức là vụ Nguyễn-Trung-trực đốt tàu Espérance tại sông Nhựt-Tảo trưa ngày 10-12-1861 dường như là triệu-chứng cho cuộc tổng tấn-công các đồn bót Pháp. Các đồn này được lịnh tích-cực giữ thế-thủ, trong khi Bonard đã rút bớt quân lính để tập trung lực-lượng lo đánh chiếm Biên-Hòa.

« Lần nầy công-tác của nghĩa-binh Việt không phải rời-rạc ; tất cả đều dường như đã tính-toán ăn rập nhau, nhứt tề đánh úp để lợi-dụng sự rút bớt quân-sĩ tại các đồn bót Pháp, từ ngày 14 đến 30 tháng mười hai năm 1861 dương-lịch, phần lớn các đồn bót đều bị đánh phá dữ-dội, nhưng tất cả quân binh công-hãm đều phải rút lui với sự tổn-thất lớn lao. Tân-An (do Avezard cai-quản), Gò-Công (do d'Arfeuille), Cần-Giuộc (do Dumont) đều bị tấn-công ngày 14 tháng mười hai; Gia-Thạnh (do Robinet và Pineau) ngày 18; Cái-Bè (do Botter và Gonon), ngày 20 và 25; Rạch Gầm (do Rolz de Couzalaz) ngày 29; Rạch Cà-Hôn (do Thouroude), ngày 30 tháng mười hai ».

« Ce coup de main des partisans annamites fut comme le prélude de l'attaque générale de presque tous les postes français, auxquels l'amiral avait envoyé des instructions pour rester strictement sur la défensive pendant qu'il allait porter toutes ses forces sur Biên-Hòa. Cette fois, il n'y eut pas de décousu dans les mouvements des annamites, tout semble aboir été combiné pour profiter de la réduction momentanée des effectifs dans l'intérieur. Du 14 au 30 Décembre 1861, la plupart des postes furent énergiquement attaqués, mais partout les assaillants durent se retirer avec de grandes pertes. Tân-An (M. Avezard), Gò-Công (M. d'Arfeuille), Cần-Guộc (M. Dumont) furent attaqués le 14 décembre ; Gia-Thạnh (MM. Robinet et Pineau) le 18 ; Cái-Bè (MM. Botter et Gonon) le 20 et 25 ; Rạch-Gầm (M. Rolz de Couzalaz) le 29 ; Rạch Cà-Hôn (M. Thouroude) le 30 ».

Theo tài-liệu này thì « cả ba xứ Tân-An, Gò-Công, Cần-Giuộc bị nghĩa-quân Việt đánh úp dữ-dội », chớ chẳng phải bị quân-sĩ của Bonard tập-kích. Mà Cần-Giuộc bị đánh ngày 14 décembre tức là 13 tháng mười một âm-lịch, lại không phù hợp với ngày giờ nêu trong bài văn-tế.

Alfred Schreiner có chép sai thời giờ của mấy nơi bị đánh phá không? Chắc là không, vì « thời giờ và mấy mơi bị tập-kích dẫn trên, Schreiner chép đúng đoạn văn Lucien de Grammont viết nơi trang 291 trong quyển Onze mois de sous-préfecture en Basse-Cochinchine, in năm 1863 tại Pháp, nghĩa là cách hai năm, sau khi xẩy ra các vụ công-hãm ấy.

Lucien de Grammont còn viết rằng Dumont bị thương tích tại Phước-Lộc (tức là Cần-Giuộc). Bài văn-tế thì ghi rằng nghĩa-quân đóng tại chùa Lão-Ngộ đánh đồn Tây-dương vào đêm rằm và « chém đặng đầu quan hai nọ ». Nhưng chắc chắn là Dumont chỉ bị thương mà thôi, vì dò theo danh-sách quân-sĩ Pháp tử trận trong năm 1861 (2) không thấy tên Dumont ; vả chăng, nơi đoạn dẫn bằng Hán-văn của bài văn-tế, nói « đâm trúng » chớ không « giết được ».

CHÚT ÍT LỊCH-SỬ...
Để hiểu cận-nhân của trận Cần-Giuộc, do đó có bài văn-tế nầy, xin tóm tắt giai-đoạn lịch-sử nước nhà trong thời ấy.

Đầu thế-kỷ XIX, đế-quốc Tây-phương chia tay nhau đi kiếm thị-trường và chiếm « thuộc địa » ở vùng Đông-Nam-Á, để bảo-đảm chắc-chắn thị-trường và tìm nguyên-liệu.

Anh gây cuộc Nha-phiến chiến-tranh với Trung-Hoa (1839), chiếm Miến-Điện (1852), và ký hiệp-ước với Xiêm (1858). Pháp lấy cớ triều-đình Huế cấm đạo Da-Tô và xử-tử linh-mục, nên bắt đầu bắn thị oai trước Cửa Hàn (25-2-1843). Và sau mấy lượt thị oai, cuối cùng quân Pháp bắn tan chiến-thuyền Việt-Nam, và Rigault de Genouilly chiếm Cửa Hàn (1-9-1858). Nhưng hơn bốn tháng sau, lại quay mũi chiến-thuyền chiếm miền Nam phì-nhiêu và được địa-thế hơn : đánh lấy cửa Cần-Giờ (11-12-1858) và hạ « Thành Gia-Định » (17-2-1859).

Kể từ quân Pháp « tanh hôi » vào miền Nam đến trận Cần-Giuộc được gần ba năm, nên trong bài văn-tế có câu :

« Mùi tinh chiên vấy-vá đã ba năm,
Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ ! »
.

Chiếm thành Gia-Định, quân Pháp chưa đủ lực-lượng để mở rộng khu thế-lực. Trong lúc ấy, triều-đình Huế biết được tình-thế, bèn đánh phá Cửa Hàn, nên R. de Genouilly phải trở ra Đà-Nẵng (20-4-1859). Liên-quân Pháp, Tây-Ban-Nha lối 3.000 quân, phải chia ở Cửa Hàn, mà bị chết trận, và phải hiệp với quân Anh dự vào chiến-tranh Trung-quốc, nên yếu lực-lượng ở Saigon, và bị vây từ tháng tư 1859 đến tháng hai dương-lịch 1861.

Việt-quân, sau khi vị thống-lãnh Võ-Duy-Ninh tử trận, thất-thủ thành Gia-Định, bèn rút về Cây-Mai và Kiểng-Phước (Chợlớn) tổ-chức lại hàng ngũ, và lần hồi bao vây quân Pháp với quân số 12.000 binh. Rất tiếc là Việt-quân không đủ lực-lượng tấn-công quân-địch, đoạt lại thành Gia-Định, để dây-dưa cho chúng có viện-binh giải vây. Quân Pháp tuy bị vây, nhưng nhờ có tàu chiến, nên làm chủ đường thủy, từ sông Saigon đến cửa biển Vũng-Tàu.

Chiến-tranh Trung-quốc kết-liễu (hiệp-ước Bắc-Kinh ngày 25-10-1860), quân Pháp được rảnh tay, trở lại thành Gia-Định. Đồng thời Thủy-sư Đô-đốc Charner được lịnh Napoléon III phái quân tiếp-viện, và tháng février 1861, đổ bộ lên Saigon.

Triều-đình Huế thấy tình-thể khẩn-trương, cử Kinh-lược Nguyễn-Tri-Phương vào điều-khiển quân tình. Trong khi ấy, quân Pháp đánh chiếm Kiểng-Phước, và đồn Cây-Mai, và từ đồn Cây-Mai, với thủy quân yểm-trợ, tấn công và hạ đồn Chí-Hòa (25-2-1861), và tiện đường, hạ đồn Thuận-Kiều, Hốc-Môn, Rạch-Tra... Kinh-lược Nguyễn-Tri-Phương bị thương phải về Phan-Rí điều-trị ; quan quân lui về cố-thủ Biên-Hòa. Chiến tranh tàn-khốc, dân-chúng lo âu và trông ngóng tin-tức của triều-đình :

« Tiếng phong hạc phập-phồng hơn mười tháng,
(kể từ trận Chí-Hòa đến cuộc tập-kích Cần-Giuộc).

« Trông tin quan như trời hạn trông mưa.
Charner sau khi thắng trận Chí-Hòa, thấy chưa thể quản-suất được Nam-Kỳ, vì còn năm tỉnh ở trong tay quan quân Việt, nên dự-định tấn-công Định-Tường và Biên-Hòa, để làm chủ ba tỉnh miền Đông, hầu cắt đứt liên-lạc giữa triều-đình Huế với quan quân ba tỉnh miền Tây.

Về chiến-lược quân-sự, lo mở rộng khu thế-lực ; dưới sông, tàu thuyền chạy đi do thám các sông rạch. Page chỉ-huy đoàn tàu từ sông Saigon chạy ra Soai-Rạp và ngược sông Đồng-Nai. Bourdais điều-khiển vài chiếc tàu thám-thính vùng Bến-Lức Tân-An. Và sau khi chiếm được Mỹ-Tho (14-4-1861), đặt tàu chiến canh chừng ven biển gần Cap Saint-Jacques, phong-tỏa cửa sông Soai-Rạp và một nhánh sông Đồng-Nai lưu-thông với Biên-Hòa, chỉ mở đường vùng hạ-lưu sông Đồng-Nai để tiện bề giao-thông với ngoại-quốc. Cuộc nội-thương chở thổ-sản từ Mỹ-Tho lên Gia-Định, thì ghe tàu vận-tải theo con sông Rạch-Cát và rạch Bảo-Định-Hạ : thương-gia Tàu được thủ-lợi nhiều trong thời-kỳ nầy.

Tại mấy nơi ngã ba sông lớn, thì đặt đồn bót cho tàu tuần-tiễu luôn-luôn : mấy chỗ quan-trọng thì túc-trực tàu trấn giữ, như vàm sông Rạch-Cát, Bến-Lức, chỗ Bến-Lức giáp nước với Vàm-Cỏ-Tây, vàm Nhựt-Tảo, Chợ-Đệm...

« Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
« Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ...


Tại Sàigòn - Chợlớn, từ tháng Mars, quân Pháp lo sắp-đặt việc hành-chánh, đặt ra chức thống-lý để cai-trị, mở-mang đường giao-thông, đặt trạm thơ. Mở trường đào-tạo thông-ngôn, tuyển-dụng « cai tổng » coi việc hành-chánh hương-thôn, mộ quân lính trong xứ làm « thân binh » để canh gác đồn bót.

Trong tháng ba 1861, Charner đã lập bốn toán tính ma-tà....

« Sống làm chi ở lính ma-tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ ».
Về lính ma-tà, theo Vial trong quyển Les premières années de la Cochinchine (in năm 1874), thì trong trận đốt tài Espérance ở Nhựt-Tảo, có lối vài chục « thân-binh » trú đóng trên bộ, trước mặt chiếc Espérance, đều bị nghĩa-quân Việt tàn-sát hết.

Những quận huyện mà quan quân Việt bỏ trống thì họ đặt quan cai-trị, cũng tại mấy địa-điểm ấy, và trí thêm đồn bót, như Cây-Mai, Thuận-Kiều, Rạch-Tra, Trảng-Bàng... tất cả đến cuối năm 1861, là 25 đồn.

Qua tháng tư dương-lịch (1861), Charner định tấn-công Định-Tường. Tàu Pháp thám-thính các vùng Bến-Lức, Tân-An, và theo rạch Bảo-Định-Hạ, sông Vàm-Cỏ tiến lần xuống Mỹ-Tho, sau khi đã cực nhọc phá-hủy những cơ-quan phòng thủ trên sông, những « khúc hàn » do Việt quân dựng lên. Đổ bộ Trung-Lương ngày 11-4-61, Tướng Bourdais bị tử-trận tại phòng-tuyến Bảo-Định-Hạ. Quân Pháp vây hãm Mỹ-Tho và chiếm cứ ngày 14-4-61, trong khi Đô-đốc Nguyễn-Công-Nhàn bỏ thành rút lui.

Thắng Mỹ-Tho, họ lần lượt đánh chiếm luôn vùng phì-nhiêu ở khoảng giữa sông Vàm-Cỏ và Tiền-giang : Chợ-Gạo, Rạch-Gầm, Cai-Lậy, Cái-Bè (vùng Mỹ-Tho) ; Tân-An, Thuộc-Nhiêu, Gia-Thạnh, Gò-Công (vùng Tân-An) ; Cần-Giuộc, Rạch-Kiến (vùng Phước-Lộc),..

Vì phải phân-tán lực-lượng canh giữ mấy đồn bót, vả chăng bị Việt-quân không ngớt tập kích, Charner phải hoãn việc tấn-công Biên-Hòa, để lo sắp đặt việc cai-trị, cho địa vị được củng-cố.

Bên phía Việt-Nam, sau trận Chí-Hòa, quan quân rút về cố-thủ Biên-Hòa. Triều-đình cử Nguyễn-Bá-Nghi thay thế Nguyễn-Tri-Phương để điều-khiển cuộc chống Pháp. Ông đến Biên-Hòa vào lúc Mỹ-Tho thất thủ. Nhận thấy tình thế không thể thắng, ông mưu tính giảng-hòa với Pháp, nhưng đô-đốc Charner buộc phải tiếp-nhận 12 điều gắt-gao, làm cho vua Tự-Đức và triều-đình không ai ưng chịu : nghị-hòa thất-bại... Đồng thời vua Tự-Đức ban chỉ-dụ ngày mồng ba tháng ba Tân-Dậu (12-4-1861), kêu gọi dân-chúng Lục-Tỉnh đứng lên chống Pháp. Tờ chỉ-dụ đại-khái như vầy :

« Người Lang-Sa đến tại xứ Gia-Định đã đặng ba năm làm rối cho Trẫm, chúng nó triệt-hạ thành, bắn phá quân cố thủ. Bởi đó các kẻ trung-thần và trẫm đều giận quá sức, nhất là nhân-dân Nam-Kỳ là người Trẫm tưởng hết thảy đều sẵn lòng hiệp cùng binh-sĩ trẫm báo thù chung.

« Người Lang-Sa không phải đồng-loại với chúng ta, họ muốn hà-khắc chúng ta và hãm-hiếp thê-tử chúng ta. Vậy những người nào xem việc ấy là sỉ-nhục, hãy theo ta.

« Mỗi người trung-thần nghe lời trẫm khuyên, hãy giục dân chỗi dậy và lập ra các đạo-binh theo cách nầy... » (*)

Phong trào khởi-nghĩa nổi lên khắp nơi, nhứt là sau vụ thất-thủ Định-Tường, vùng Gò-Công là nơi ngoại-thích của nhà vua, bị chiếm-cứ : ông Huyện Thoại với Trương-Công-Định ở Gò-Công, ông Phủ Cậu ở Mỹ-Quý. Chịu mạng-lịnh ở Biên-Hòa và Vĩnh-Long, nghĩa-quân hoạt-động đánh phá vùng tứ giác Chợlớn, Tân-An, Mỹ-Tho, Gò-Công.

Ông Trương-Công-Định mộ quân ứng-nghĩa, một mặt đắp đập hàn sông, phá đường giao-thông, một mặt truy-nã bọn theo giặc, đi lính hoặc làm « quan » cho Pháp, nhiều vị « cải tổng » xu thời bị ám-sát. Từ tháng sáu đến tháng mười một dương-lịch, nghĩa là trong thời-kỳ chỉ-huy của Charner, nhiều trận tập-kích tiếp-diễn không ngớt khiến quân giặc phải mệt công chống đỡ, tuần tiễu đêm ngày, và khiến Charner phải ký nghị-định ngày 22-8-1861 giải-tán đồn-điền trong nông-thôn của triều-đình mà quân Pháp mới chiếm cứ làm chủ.

Trận mãnh-liệt nhứt là trận Gò-Công. Rạng ngày 22 Juin 1861, ông Huyện Đỗ-Trình-Thoại với 600 nghĩa-quân vây đánh Vial đóng căn-cứ tại một cái đình. Vial nhờ có thám-tử mật báo nên đề-phòng được ; tuy vậy y cũng bị thương và bị hỏa hổ Việt quân xịt cháy một con mắt, ông Huyện Thoại bị tử-trận.

Qua ngày 24 Juin, ông Trương-Công-Định tiếp đánh trả thù dữ-dội ; thiếu-tướng Lebris phải cho đổ-bộ thêm quân mới đánh lui được.

Tại Mỹ-Tho, ông Phủ Cậu đóng căn-cứ ở Mỹ-Quý đánh phá Cai-Lậy ngày 29-8 và ngày 15-9 dương lịch : đồn Bourdais ở Bảo-Định-Hạ bị tập-kích ngày 4-9 ; Rạch Gầm bị đánh phá ngày 30-10 và 3-11 dương-lịch...

Cuối tháng 11 dương-lịch, Phó Đô-đốc Bonard chở thêm quân tiếp-viện và thay thế Charner. Chiến-lược của ông là phải thực-hiện việc đánh chiếm Biên-Hòa và Bà-Rịa nghĩa là làm chủ ba tỉnh miền Đông để chận đường liên-lạc giữa triều-đình với quan quân ba tỉnh miền Tây, và củng-cố thế-lực của quân Pháp hầu thôn-tính trọn Nam-Kỳ. Vì vậy, ông lo rút bớt quân lính các đồn bót để chuẩn-bị tấn-công Biên-Hòa. Trước tiên, ngày 9-12-1861, phái Lespès chỉ-huy chiếc tầu Norzagaray ra chiếm đảo Côn-Nôn, vì sợ nước Anh đến giành, lấy cớ là gần Singapore.

Trong lúc ấy, Việt-quân thám thính biết được mưu-lược của Bonard nên quan quân ở Biên-Hòa lo xây đắp thêm chiến-lũy và đập hàn sông. Nghĩa-quân thì ráo-riết hoạt-động. Trưa ngày 10 tháng 12 dương-lịch, Ông Nguyễn-Trung-Trực sắp đặt mưu-kế, giả làm ghe thương-hồ, can-đảm tiến gần tàu Espérance đậu tại Nhựt-Tảo, và xuất kỳ bất ý chém giết quân giặc, đốt được tàu, quân Pháp chỉ có năm người thoát thân được (2 lính Pháp, 3 lính tagals). Quân Pháp trả thù đốt làng Nhựt-Tảo...

Chiến-công oanh-liệt nầy vang dội khắp xứ « Hỏa-hồng Nhựt-Tảo oanh thiên-địa » làm phán-khởi nghĩa-quân. Và thừa lúc quân Pháp rút bớt binh lính, Việt-quân mới đánh úp các đồn, theo như lời của Schreiner viết mà chúng rôi lược dịch ở đoạn trên.

Bởi mấy cận-nhân ấy mới có trận Cần-Giuộc và bài văn-tế của Cụ Đồ Chiểu tế « vong hồn mộ nghĩa ». Có điều khác là, như đã nói ở trước, theo sách Pháp thì trận Cần-Giuộc, (Tân-An, Gò-Công) do Việt-quân đánh úp, xảy ra ngày 14-12-1861, tức là ngày 13 tháng 11 năm Tự-Đức thứ 14, mà trong bài văn-tế lại để là đêm rằm.

Chánh rạng đông ngày 14-12-1861 ấy, Bonard xuất binh, chỉ-huy bốn đạo quân, do hai đường thủy và bộ tiến đánh Biên-Hòa : làng Gò-Công thuộc quận Thủ-Đức bị chiếm ; và sau hai ngày công-hãm khó nhọc, ngày 16 và 17-12, bị sức chống trả mãnh-liệt của Việt-quân dưới quyền chỉ-huy của Lê-Khắc-Cần, Bonard mới chiếm được Biên-Hòa.

Phải chăng việc Bonard đánh chiếm làng Gò-Công, có rạch Gò-Công, thuộc quân Thủ-Đức vào ngày 14-12-1861 khiến hai học-giả chúng ra lầm lẫn là Bonard đánh Gò-công (tỉnh-lỵ) ?

Tóm lại, theo mấy tài-liệu đã dẫn ra, chúng ta có thể hiểu như thế nầy. Việt-quân dọ biết Phó đô-đốc Bonard vừa thay thế Đô-đốc Charner, cho lịnh rút bớt quân lính các đồn để chuẩn-bị đánh chiếm Biên-Hòa hầu chận đường liên-lạc giữa triều-đình với nghĩa-quân miền Tây. Lợi-dụng việc bớt quân ấy của Pháp, Việt-quân tổ-chức cuộc tập-kích, được phấn-khởi sau vụ đốt tàu Espérance ở sông Nhựt-Tảo (10-12-1861). Thừa lúc Bonard xuất binh đi đánh Biên-Hòa hồi 5 giờ sáng ngày 14-12-1861 thì tối đêm ấy nghĩa-quân nhất tề đánh phá Tân-An, Gò-Công (sách Pháp không nói lúc ban ngày hay ban đêm vì thuật tóm lược nên ghi luôn Cần-Giuộc). Và theo lời ghi chú và lời văn trong bài văn-tế thì trận Cần-Giuộc có thể xảy vào đêm rằm tháng 11 năm Tân-Dậu (16-12-1861), cũng như trận Gia-Thạnh ngày 18-12...

Có điều việc điếu-tế không biết cử hành tại đâu và vào ngày nào ?

VĂN-TẾ VONG HỒN MỘ NGHĨA
Tự Đức thập-tứ niên, thập nhứt ngoạt, thập ngũ nhựt chi dạ. Thống quản (Bùi Quang Mỗ) suất tương nghĩa-binh tựu Cần Giuộc công phá dương huyện, thiêu đắc dương di đạo đường, đạo quán, thích trúng dương quan tri huyện, tịnh Chà-và Ma-ní đẳng ; nghĩa binh trận vong, cai thập ngũ danh. Kỳ Tú-Tài Nguyễn-Đình-Chiểu phụ tế văn :

1.- Súng giặt đất rền, Lòng dân trời tỏ :
2.- Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn, danh nổi như phao.
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất, tiếng vang như mõ (a)
3.- Nhớ linh xưa !
Cui cút làm ăn, Riêng lo nghèo khó.
4.- Chưa quen cung ngựa, đua tới trường nhung (1),
Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng hộ.
5.- Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen ;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6.- Tiếng phong hạc (2) phập-phồng (2) hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa ;
Mùi tinh chiên vấy-vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
7.- Bữa thấy bòng bong (3) che trắng lốp, muốn tới ăn gan ;
Ngày xem ống khói chạy đen xì (b), muốn ra cắn cổ.
8.- Một mối xa thơ 94) đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu ;
Hai vầng Nhựt nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9.- Nào đợi ai đòi ai bắt ; phen nầy xin ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc (c) ra tay bộ hổ.
10.- Khá thương thay !
Vốn chẳng phải quân cơ (d) quân vệ, theo dòng (đ) ở lính diễn binh,
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ (e)
11.- Mười tám ban võ-nghệ, nào đợi tập rèn (g) ;
Chín chục trận binh thơ, không chờ bày-bố (h) ;
12.- Ngoài cật có (i) một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bao ngòi (5) ;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13.- Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém đặng (k) đầu quan hai nọ.
14.- Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.
Nào sợ người (k') Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15.- Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma-tà, ma-ní hồn kinh ;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng, súng nổ.
16.- Những lăm lòng nghĩa sau dùng (l), đâu biết xác phàm vội bỏ,
17.- Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay yên ngựa chở thây (m);
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18.- Đoái sông Cần-Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng ;
Nhìn chợ Trường-Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
19.- Chẳng phải án cướp án gian (n) đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm ;
Vốn không giữ thành, giữ bảo (o) bỏ đi, mà hiệu lực (6) theo quân cho đáng số.
20.- Những nghĩ rằng :
Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta,
Bát cơm manh áo của (p) đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21.- Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương ;
Vì ai xui đồn-lũy tan-tành, xiêu mưa ngã gió.
22.- Sống làm chi theo quân khác loại (q), quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính ma-tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23.- Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ-phụ cùng vinh ;
Chẳng thà hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man-di rất khổ.
24.- Ôi thôi thôi !
Chùa Lão Ngộ (7) (r) năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm.
Đồn Tây-dương một khắc đặng trả hờn (s), tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25.- Đau-đớn bấy mẹ già trông con trẻ (t), ngọn đèn khuya leo-lét trong lều ;
Não-nồng thay vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật-dờ trước ngõ.
26.- Ôi !
Một trận khói tan, ngàn năm tiết rõ (u),
27.- Binh tướng nó hãy đóng sông Bến-Nghé, làm cho bốn phía mây đen.
Ông cha ta còn ở đất Đồng-Nai, ai cứu đặng một phương con đỏ.
28.- Thác mà trả nước non rồi nợ (v), danh thơm đồn sáu tỉnh, chúng đều khen ;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời, ai cũng mộ.
29.- Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc (x), linh-hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia ;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã đành-rành, một chữ ấm đủ đền công (z) đó.
30.- Nước mắt anh-hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân (8)
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi !
Có linh xin hưởng.


----------------------

(*) Trích một đoạn bản dịch của Nguyễn-Bảo-Hóa, Nam bộ chiến sử (Saigon, Lửa Sống 1949), tr. 97.
a) Có bản chép : Mấy năm công vỡ ruộng, ở đất Vua sống chẳng quên ơn. - Một trận nghĩa đánh Tây, đền nợ nước thác coi như ngủ.
b) Có bản chép : Đêm đêm thấy bòng bong che trắng lốt... Ngày ngày xem ống khói chạy đen xì...
c) Có bản chép : quyết.
d) Có bản chép : Nào phải thiệt quân cơ
đ) Có bản chép : theo vòng
e) Có bản chép : Gốc thật ròng là dân ấp, dân lân, ra ứng nghĩa làm quân chiêu mộ.
g) Có bản chép : chưa kịp tập rèn
h) Có bản chép : Mấy mươi trận binh thơ, khôn chờ bày-bố.
i) Có bản chép : Ngoài cật che một manh...
k) Có bản chép : cũng chém rớt đầu...
k') Có bản chép : Nào sợ thằng Tây
l) Có bản chép : lòng nghĩa lâu dùng.
m) Có bản chép : da ngựa bọc thây.
n) Có bản chép : Chẳng phải ăn cướp, ăn gian...
o) Có bản chép : giữ thành, giữ lũy.
p) Có bản chép : manh áo ở đời.
q) Có bản chép : theo quân tả đạo.
r) Có bản chép : chùa Tân-Thạnh
s) Có bản chép : Đồn Lang-sa một phút đặng trả hờn, chúng phận bạc...
t) Có bản chép : mẹ già ngồi khóc trẻ
u) Có bản chép : ngàn năm tiết rỡ
v) Có bản chép : Thác mà nước non rồi nợ
x) Có bản chép : Còn đánh giặc, mất cũng đánh giặc,
z) Có bản chép : đền ơn đó.

(1) trường nhung : chỗ đánh giặc, chiến-trường.
(2) tiếng phong hạc : « Phong hạc » do câu « phong thanh hạc lệ » là « tiếng gió thổi, tiếng hạc kêu », dùng chỉ khi có điều gì nghi sợ thái quá, nghe tiếng gì cũng phập-phồng. Lấy tích : « quân của Phù-Kiên đời Tấn liệt binh trăm vạn ở sông Phì-Thủy. Tạ-Huyền bèn đem tám ngàn quân vượt qua sông ; quân của Phù-Kiên vỡ chạy, quăng bỏ khí giáp chạy trốn, ban đêm nghe « tiếng gió thổi, tiếng hạc kêu » đều ngỡ là quân giặc đuổi theo.
(3) bòng bong : vải hoặc đệm buồm may che nắng ; đây là nhà lều bằng bố của lính Pháp.
(4) xa thơ : « xe và sách » do câu « Kim thiên hạ xa đồng quỹ, thư đồng-văn » (ngày nay trong thiên-hạ, xe cùng một thứ trục, một cách thức, sách cùng một thứ chữ). Ý nói đất nước được « nhứt thống » thạnh-vượng, đâu phải khổ-khắc như đời Tần-thủy-Hoàng, mà chịu để cho Lưu-Bang chém rắn đuổi hươu (nhà Tần).
(5) Bao tấu, bầu ngòi : bao đựng mã tấu, dao tu của lính, bầu đựng ngòi thuốc súng, vì phía bên Việt quân dùng súng « hỏa-mai » bắn « hỏa hổ ».
(6) Hiệu-lực : vì có tội, phải tòng quân mà chuộc tội.
(7) Chùa Lão Ngộ là ngôi chùa ở trên đường Mỹ-Lộc từ Cần-Giuộc qua Rạch-Kiến.
(8) Thiên dân là nhân-dân, dân đen.

Xuân CANH-TÝ (1960)
LÊ-NGỌC-TRỤ
(sao lục và giải-thích)
Đồng-Nai văn-tập 7, 1.8.1966

Chú thích:
(1) Sách in tại Saigon, Bản in Nhà hàng Rey et Curiol, 1866, tr. 28-29.
(2) Xem Leopold Pallu de la Barrière :
Histoire de l'Expedition de Cochinchine en 1861. Paris, Berger, Levrault 1888, tr. 305-362.

0 comments: