Đoàn Tư Thuật (1886-1928)

Đoàn Tư Thuật, hiệu Mai Nhạc, sinh trong một gia đình Nho học, cháu xa cụ Đoàn Huyên, tự Xuân Thiều, hiệu Ứng Khê, làm đốc học, dạy nhiều học trò, quê thôn Hữu-châu, làng Hữu-thanh-oai, huyện Thanh-oai, Hà-đông cũ (nay thuộc tỉnh Hà-tây).

Thuở nhỏ, học chữ Hán, có tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục. Khi phong trào tan vỡ, ông có bị bắt. Sau được tha, chán nản, ông thường chỉ uống rượu, ngâm thơ, không đi thi.

Ông thường ví mình như Tín Lăng Quân (một nhà hào hoa phong nhã đời Chiến quốc) và Đỗ Mục (một nhà thơ đời Đường), thường hay đọc câu: « Rượu ngon, gần gái, bệnh Tín Lang là bệnh anh hùng; Hoa rụng, tiếc xuân, sầu Đỗ Mục là sầu thiên cổ ».

Thơ văn của ông không được biên chép lại, chỉ còn một số tác phẩm trong các bản dịch Tựa tập vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh đã đăng trong Nam phong và ký tên là Đoàn Quì; bản dịch Tuyết hồng lệ sử cũng đăng trong tạp chí Nam phong và in thành sách.

(Theo Lược truyện các tác gia Việt nam. Tập II. Nxb KHXH Hà-nội - 1972)

Tác phẩm:
  1. Truyện Tỳ-bà (dịch của Cao-đông-Gia, Nguyễn-Khắc-Hiếu san nhuận) (H. : Tản-Đà thư-điếm, 1923 - 103 p. ; 0$50)
  2. Tuyết hồng lệ sử (dịch của Từ-Trẩm-Á) (H. : Đông-Văn thư-điếm, 1928 - 36 p.)

0 comments: